"Gạo tám xoan Nam Hà"
Gạo tám xoan hải hậu Nam Hà hạt nhỏ dài, thổi cơm rất mau chín, cơm tám xoan màu trắng xanh, dẻo, mùi thơm nhệ nhàng, ăn mau tiêu và hàm lượng chất bổ cao hơn các loại gạo khác rất nhiều. Phải chăng do đặc điểm thổ nhưỡng, khí hậu ở vùng đất này, cùng cách chọn giống và canh tác công phu đặc biệt của nông dân đã tạo ra được loại gạo tám xoan hải hậu đặc sắc.
Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam không ít những câu, như: Em như hạt gạo tám xoan Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà. Gạo tám xoan Chim ra ràng Cà cuống trứng. Cơm tám xoan ăn với chả chim Chồng đẹp, vợ đẹp, những nhìn mà no…
Cơm gạo tám thơm ngon bổ dưỡng
Thẩm định, đánh giá dân gian truyền đời về giá trị của gạo tám xoan hải hậu, như là đầu bảng của thú ăn, của hạnh phúc đối với cư dân châu thổ Bắc Bộ. Nam Định là một trong số ít trung tâm hàng đầu về loại lúa nổi tiếng này. Khắp các nơi đâu cũng có các loại tám, nhưng phải là tám xoan hải hậu, tám ấp bẹ của vùng Xuân Đài, Nam Định. Ở Việt Nam chưa biết "tám xoan hải hậu" có tự bao giờ. Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes chép phân biệt loại gạo nếp, gạo tẻ mà không thấy viết tên giống gạo gì, tính chất ra sao. Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn có viết tới “lúa bát xuân ưa ruộng cao, cây cao, bông dài mà mềm, hạt thưa mà nhỏ, hơi vàng, hạt gạo rất trắng, mùi vị rất thơm”. Đến Đại Nam nhất thống chí và các tài liệu chí khác cuối thế kỷ XIX miêu tả tương tự: “Lúa tám xoan cây cao, bông dài và mềm, thóc thưa và nhỏ, hạt hơi dài, màu vàng, hạt rất trắng, vị ngon”. Theo dân gian, tám xoan hải hậu có từ lâu ,đã dùng tiến vua. Vào những năm 1939 – 1945, khi giặc Nhật bắt dân nhổ lúa trồng đay, người dân âm thầm lén trồng tám xoan, như là một cuộc đấu tranh bền bỉ,tự nguyện gìn giữ và lưu truyền cho cuộc đời, cho mai sau giống lúa quý của cha ông.